Bệnh nấm phổi gia cầm (Aspergillosis)

Bệnh nấm phổi gia cầm

Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính của gà con, bệnh số và tử số cao
Đặc trưng của bệnh là hình thành các u nấm màu vàng xám ở phổi và thành các túi khí

Căn bệnh : Aspergillus fumigatus

Thuộc nấm mốc, sinh sản vô tính bằng bào tử trần
Môi trường nuôi cấp : saboro
Nhiệt độ nuôi cấy là nhiệt độ phòng, 37oC hoặc cao hơn
Khuẩn lạc trong thời gian đầu tiên trắng mịn như nhung, sau đó chuyển sang màu xanh lá cây lợt, xanh lá cây và sẫm màu dần cho đến màu đen, lúc đó khuẩn lạc thành cục hay thành từng mãng
Sức đề kháng: đề kháng tốt với nhiệt độ và hoá chất, hấp khô 120oC trong vòng 1 giờ hoặc đun sôi 5 phút mới diệt được bào tử
Các chất hoá học phải có nồng độ cao như formol 2.5% , Acid xalixalic 2.5% tiêu diệt được khuẩn lạc

Truyền nhiễm học

Loài cảm thụ

Tất cả các gia cầm và chim đều nhiễm bệnh, nhưng vịt và ngỗng cảm thụ nhất, sau đó đến gà và gà tây
Lứa tuổi cảm thụ từ 1-3 tuần tuổi, tuy nhiên có đôi khi gặp những trường hợp lúc 6-7 tuần tuổi
Gia cầm trưởng thành thường ít thấy

Nguồn truyền nhiễm

Gia cầm bệnh, trứng bệnh, thức ăn, ổ rơm bị nhiễm trùng, máy ấp bị vấy nhiễm, gà con 1 ngày tuổi bị nhiễm vì hít phải bào tử

Đường truyền lây

Chủ yếu qua đường hô hấp, bào tử được phát tán khắp nơi chủ yếu từ chất độn chuồng ổ rơm, từ thức ăn bị nhiễm nấm, từ nền chuồng… gia cầm hít phải các bào tử này và bị nhiễm bệnh
Gia cầm nuôi nhốt theo phương pháp chăn nuôi công nghiệp thì bệnh thường nặng hơn nuôi chăn thả
Ngoài ra bệnh còn có thể lây qua đường tiêu hoá

Cơ chế sinh bệnh

Bào tử nấm xâm nhập vào niêm mạc hô hấp hoặc tiêu hoá, sau đó theo máu đến địa điểm ký sinh và nẩy mầm tạo thành sợi nấm, tạo những u nấm to nhỏ màu trắng xám, hay màu vàng ở phổi hoặc thành các túi khí hoặc một số cơ quan khác
Trong quá trình sinh sản thì các tế bào nấm sẽ sản xuất ra các sản phẩm trao đổi chất, đó là các men phân giải protein, nó phá hoại mô bào và đó cũng là ngoại độc tố gây nhiễm độc huyết, làm con vật xuất hiện triệu chứng trúng độc toàn thân và chết

Triệu chứng

Thời gian nung bệnh là 3-10 ngày
Thể cấp thường thấy ở gà con từ 1-3 tuần tuổi, tỷ lệ chết khoảng từ 50-80%
Thể mãn thường thấy ở gà lớn, tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết thấp.

Thể cấp

Lúc đầu gà có triệu chứng như uể oải, lim dim, chán ăn, khát nước, thường đứng riêng hay nằm một chỗ, gà khó thở, ngáp nhịp thở nhanh
Gà ốm đi nhanh chóng, tiêu chảy ở giai đoạn sau, từ mắt và mũi chảy ra chất dịch nhớt trông giống như huyết thanh, sau đó kiệt sức và chết, trước khi chết có co giật do trúng độc
Tỷ lệ chết bắt đầu từ ngày tuổi thứ 5, đỉnh cao lúc 15 ngày tuổi, những con nhiễm nặng chết trong vòng 24 giờ

Thể mãn tính

Bệnh nhẹ ít chết, thở khó kéo dài, ốm yếu, mào yếm nhợt nhạt, có thể chết do ngộ độc mãn

Bệnh tích

Có những u nấm to nhỏ màu trắng hay vàng xám ở trên phổi và thành túi khí, khi tách u nấm ra rất dễ dàng.
U nấm chia làm hai thể:
U hạt có giới hạn rõ ràng, nổi rõ trên bề mặt tổ chức, thường thấy ở thể cấp
U lan tràn thì không thể đếm được, u không có giới hạn, mọc khắp các tổ chức, thường gặp ở thể mãn tính

Thể cấp

Phổi viêm có thể có những vùng gan hoá, phù và tụ máu đỏ, thỉnh thoảng có những đám hoại tử, niêm mạc khí quản xung huyết có nhiều dịch nhờn

Thể mãn

Thành túi khí dày, xoang túi khí hẹp chứa nhiều mũ và fibrin, ngoài ra còn có những hạt nấm mọc ở gan, lách, tim, phúc mạc, màng treo ruột
Niêm mạc dạ dày và ruột viêm đỏ

Chẩn đoán bệnh

Tiếng thở của bệnh viêm phế quản ( IB ) và bệnh viêm thanh khí quản ( ILT ) là gà thở khó và có tiếng ồn, có tiếng khò khè và tiếng ọt
Nấm phổi thở khó nhưng không có tiếng động
Bệnh thương hàn: phổi có nốt trắng nhưng đó là nốt hoại tử, ngoài ra còn hoại tử ở gan và lách

Phòng và điều trị

Điều trị:  không dùng kháng sinh có nguồn gốc từ nấm, dùng các kháng sinh như Nystatin, Myscotatin, AmphotericinB, ngoài ra còn có thể dùng các hoá chất diệt nấm như Rystanviolet, sulfat đồng
Nên tăng cường thêm vitamin A trong quá trình điều trị
Phòng : Ngoài vấn đề dinh dưỡng như  cung cấp  thức ăn tốt , đầy đủ dinh dưỡng cho gà, chúng ta cần chú ý đến các vấn đề về vệ sinh thú y như: Sát trùng chuồng trại, các chất độn chuồng phải được xử lý bằng hoá chất, sát  trùng trước khi đưa vào trại
Thay ổ rơm hay chất độn chuồng thường xuyên, chuồng phải khô ráo, không ẩm ướt, thức ăn không dùng thức ăn cũ, lâu ngày
Không ấp trứng của những gà bệnh, trước khi ấp trứng, máy ấp phải được xông bằng Formol và thuốc tím theo tỉ lệ 2:1 hoặc có thể xịt bằng các thuốc sát trùng như Thiabenidazole .